Bệnh quai bị

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiếm muộn của các chàng, trong đó những biến chứng của bệnh quai bị cũng được coi là một thủ phạm của sự hiếm muộn.

Quai bị là bệnh nhiễm khuẩn do Myxo virus gây ra. Bệnh thường xuất hiện vào mùa xuân – hè và hiện chưa có thuốc đặc trị.Một truyện người lớn cần hiểu rõ.

Bệnh quai bị

Bệnh quai bị

Bệnh lây truyền qua nước bọt và nước tiểu của người bệnh và phổ biến ở quãng độ tuổi từ 3 – 14 tuổi, 5 – 9 tuổi và thanh niên 18 – 20 tuổi.

Miễn dịch sau khi bị bệnh quai bị khá bền vững, khi đã mắc bệnh một lần hoặc được tiêm phòng vaccine hầu hết bệnh nhân đều không mắc lại.

Biến chứng do bệnh quai bị ít, tuy nhiên rất nặng nề. Nếu coi thường không được phát hiện và điều trị kịp thời bệnh còn có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm như viêm não, viêm màng não đặc biệt có thể gây vô sinh đối với bé trai sau này do viêm tinh hoàn, đái tháo đường do viêm tụy kéo dài.

Viêm tinh hoàn là biến chứng thường gặp nhất của bệnh quai bị ở nam giới sau tuổi dậy thì. Khi bị viêm, tinh hoàn đau và sưng to, thường kèm với sốt. Khi quai bị biến chứng, quá trình teo tinh hoàn sẽ liên tục tiếp diễn trong vòng 1-6 tháng sau.

Điều này sẽ khiến quá trình sản sinh tinh trùng của các chàng sẽ giảm dần và có thể bị mất hẳn. Nếu không may bị viêm cả hai bên tinh hoàn thì sẽ dẫn đến vô sinh hoàn toàn.

Đề phòng biến chứng vô sinh của quai bị

Bài toán của giảm thiểu tác hại của di chứng trên tinh hoàn kịp thời và đúng cách để bệnh không gây di chứng vô sinh:

Trước hết các chàng phải được áp dụng các biện pháp điều trị như nghỉ ngơi tại chỗ, khi tinh hoàn sưng thì phải nghỉ tuyệt đối.

Bên cạnh đó việc chườm mát tinh hoàn, dùng thuốc hạ sốt, giảm đau, sử dụng thuốc kháng viêm. Nếu có thể, hãy đưa bệnh nhân đến các trung tâm điều trị vô sinh để xin trữ lạnh tinh trùng khi chất lượng tinh trùng chưa giảm nhiều.

Lưu ý:

Bệnh quai bị chỉ gây biến chứng với nam giới còn đối với phụ nữ bị quai bị, viêm buồng trứng rất hiếm gặp và ít ảnh hưởng đến khả sức khỏe sinh sản. Thậm chí, quai bị có thể xảy ra ở thai phụ trong thời kỳ 3 tháng đầu nhưng trẻ sinh ra không bị dị tật bẩm sinh.